Friday, May 20, 2005

Sự phát triển của nhân loại trong quan hệ với tri thức (1)

 

Tác phẩm "Những nguồn gốc của tư duy hiện đại" của Merlin Donald đã xem lại những giai đoạn phát triển tri thức loài người rất sâu sắc. Những điều trình bày dưới đây dựa nhiều vào tác phẩm này nhưng đã mở rộng ở mức độ nào đó bằng cách thêm vào suy nghĩ dự báo về các giai đoạn sắp tới.

Kỷ nguyên: Người nguyên thủy, sinh hoạt mông muội

Được coi là người duy nhất có đủ khả năng quan sát để hiểu biết về những điều đang diễn ra trong môi trường và biết theo "từng đoạn một". Tất nhiên có sự học hỏi và giao tiếp giữa những người ngang hàng nhưng rất ít hoặc không có khả năng tư duy trừu tượng.

Cùng với khả năng tối thiểu để giao tiếp thì chỉ đạt được "hiểu biết" vượt ra khỏi cái một con người có thể quan sát một cách trực tiếp.

1.500.000 - 200.000 BCE ? Con người đi thẳng và có khả năng bắt chước.

Donald tranh luận rằng sự tiến bộ của một "phần cứng" quan trọng xảy ra cùng với tư thế đứng thẳng của con người - khả năng giao tiếp bằng điệu bộ. Cử chỉ hay hành động cung cấp một phương pháp sơ đẳng để ám chỉ những vật hay sự kiện không thấy ngay lập tức - để điều phối hành động, chỉ ra nơi chốn và bản chất thức ăn hay các mối nguy hiểm.

Mặc dù ngôn ngữ cử chỉ cung cấp phương thức truyền đạt rất khó nhọc và không chính xác cho giao tiếp, nhưng có lẽ mọi người vẫn có thể thu được một vài hiểu biết nào đó từ những người khác ngoài cái mà họ có thể phát triển thông qua kinh nghiệm trực tiếp.

100.000 BCE: Tiếng nói của loài người cổ xưa

Vấn đề tại sao ngôn ngữ phát triển và nó đã phát triển như thế nào và liệu đó là một sự tiến bộ về văn hoá hay sự tiến bộ của phần cứng đầu tiên đang là một vấn đề gây tranh cãi hết sức nóng bỏng. Tuy nhiên, có một khả năng được thừa nhận là phạm vi hiểu biết của con người và xã hội được mở rộng đáng kể. Bây giờ con người có thể học hỏi không chỉ từ việc liên lạc trực tiếp với những người khác hay các nhóm khác mà còn từ những câu chuyện được truyền miệng từ xa xưa.

Việc sử dụng ngôn ngữ tuỳ thuộc vào sự tiến bộ trong khả năng nhận thức, và đồng thời nó cũng cung cấp một phương thức để đẩy mạnh những tiến bộ này. Việc xoá bỏ sự hồ nghi trước đây cũng chậm chạp như khả năng nhận thức và sự phong phú của các phương thức chuyển tải lời nói diễn ra dần dần qua các thế hệ.

Rốt cuộc, lời nói đã có thể chuyển tải kiến thức (nếu cùng với sự đáng tin cậy còn hạn chế) từ các thời đại và từ những nơi chốn xa xôi. Donald đã mô tả tỉ mỉ mối quan hệ mật thiết giữa ngôn ngữ lời nói và những nền văn hoá "tượng trưng", những nền văn hoá phát triển và chứa đựng sự hiểu biết cốt yếu trong thần thoại, được giữ gìn bởi một phương thức truyền miệng.

40.000 - 20.000 BCE: Những bức hoạ trong hang động

Những bức hoạ về hang động và nghệ thuật chạm trổ tượng trưng hình thành nên sự khởi đầu của "quá trình lưu trữ ngoài thông tin về lâu dài".

Bộ nhớ ngoài có nhiều ưu điểm thu hút sự quan tâm.

Được sử dụng như là một sự mở rộng của "bộ nhớ làm việc" đáp ứng cho nhu cầu sử dụng ngay lập tức khi đang suy nghĩ.

Cung cấp sự lưu trữ về lâu dài, giúp cho việc khôi phục lại ở một thời đại sau. Được dùng để giao tiếp với những người khác.

Những bức hoạ ban đầu đã giúp cho những kỹ năng suy nghĩ nhiều như thế nào, hay có bao nhiêu kiến thức được chuyển tải từ những bức hoạ đó thì không hề được nói rõ.

Giao tiếp thông qua những bức vẽ quả có sức mạnh tiềm tàng nhưng có lẽ là khó khăn với những vật liệu để vẽ trước kia, và không dễ gì mang chúng theo được. Tuy nhiên, có vẻ những bức vẽ ban đầu, kết hợp với những khả năng giao tiếp đã trở nên tinh tế hơn thông qua việc sử dụng lời nói, đã đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển chữ viết diễn đạt bằng hình tượng thời kỳ đầu.

Sự phát triển của chữ viết: 4000 BCE - 1400 CE

Sự phát triển hệ thống những biểu tượng của chữ viết cho những khái niệm cụ thể và trừu tượng cuối cùng đã đem lại một hình thức tăng cường mạnh mẽ khả năng mọi người viết ra và đóng góp vào dòng kiến thức vô tận của nhân loại, từ xa đến gần, từ hiện tại hay trong quá khứ. Ngoài ra, chữ viết (và những vật liệu "kỹ thuật " đi cùng) đã cung cấp một sự hỗ trợ đắc lực cho một bộ não vốn hạn chế về khả năng suy nghĩ hay giao tiếp ngay lập tức nhiều ý tưởng phức tạp.

Từ đó chữ viết đem đến một sự hỗ trợ thiết yếu về phần cứng cho cơ quan thần kinh, dữ liệu sẵn có ra tăng lớn trong cho cơ quan này để cân nhắc xem xét, và một khả năng đã được cải thiện đáng kể cho hệ thần kinh của con người để cùng suy nghĩ. Hình vẽ cho thấy rằng các cơ quan thần kinh giờ đây đã thường sử dụng bộ nhớ ngoài như một bộ phận hỗ trợ đắc lực cho việc suy nghĩ.

Trong suốt thời gian này các lĩnh vực về khoa học và triết học được khám phá một cách rộng rãi và có hiệu quả, trở nên dễ dàng hơn bởi khả năng suy nghĩ, lưu trữ thông tin và khả năng giao tiếp qua chữ viết. Một số tiến bộ như là: trong toán học người ta đã có thể quy cho gần như là hoàn toàn vào "vai trò của những biểu tượng của chữ viết". Sự tập hợp của những kết quả về một lượng người đang gia tăng một cách rộng lớn bởi những tiến bộ trong việc quản lý những người dù ở cách xa nhau đã được thực hiện phần lớn nhờ vào chữ viết.

Tuy nhiên, việc tiếp cận với chữ viết (hay việc dạy cho mọi người đọc được những chữ viết đó) còn hạn chế bởi những bản sao chép chữ viết phải làm thủ công, và quyền kiểm soát việc tiếp cận chữ viết  này thường nằm trong tay những người ưu tú đang nắm quyền hay những người thống lĩnh tôn giáo.